1. Các đoạn văn đánh dấu ‘M.’ trong sách này tiêu biểu kinh điển truyền thống Phật giáo Đại thừa. Không như Phật giáo Thượng tọa bộ (Theravāda), Đại thừa không tiêu biểu cho một trường phái riêng hay cộng đồng tăng lữ nào. Đúng hơn, đó là một phong trào rộng rãi bao gồm nhiều trường phái và cách tiếp cận khác nhau, triển khai các phương pháp diễn đạt về giáo pháp của đức Phật tập trung vào bi và trí. Các bộ Kinh đại thừa bắt đầu được phổ cập vào thế kỷ thứ nhất trước TL. Nguồn gốc của nó không gắn liền với bất cứ tên tuổi cá nhân nào, cũng không được liên kết với duy chỉ một cộng đồng tăng lữ sơ kỳ nào, dù bộ phái chính được biết vẫn là Đại chúng bộ (Mahā-sāṃghika). Nó phát sinh ở vùng đông-nam Ấn-độ, phát triển qua vùng tây-nam và cuối cùng đến vùng tây-bắc.
2. Những đặc điểm then chốt của Đại thừa
Như mọi hình thức Phật giáo, Đại thừa bao gồm các giáo pháp hướng đến những người mưu tìm trước mắt sự giảm thiểu các lo toan căng thẳng thường ngày trong cuộc sống: làm cách nào để sống bình thản, vị tha và hòa ái hơn, và đây cũng là cách để phát khởi thiện nghiệp dẫn đến đời sau tốt đẹp tương ứng. Tuy nhiên một cách rốt ráo, sự an lạc thường hằng tùy vào sự vượt ra khỏi những thứ vô thường và hữu vi. Trong Phật giáo, có người đặt mục tiêu trở thành Thánh giả (A-la-hán; Skt, Pāli: arahant), là vị đã chấm dứt các tham trước, sân và si vốn dẫn đến tái sinh với già lão bệnh tử và các thống khổ về tinh thần. Đây là cứu cánh của những tu sĩ Phật giáo Theravāda. Có người muốn trở thành Độc giác (Skt. pratyeka-buddha; Pāli, pacceka-buddha), vị có trí tuệ cao hơn A-la-hán (xem *LI.3 trên), nhưng khả giáo hóa hạn chế. Và có người muốn trở thành Chánh Đẳng Giác (Skt. samyak-sambuddha; Pāli, sammā-sambuddha), vị có trí tuệ siêu việt, vận dụng trí tuệ và phương tiện, với tâm đại bi, hóa độ vô lượng chúng sanh bằng uy lực và giáo pháp của Ngài. Đây là mục đích tối hậu của Phật giáo Đại thừa.
Tổng quan các đặc điểm then chốt của PG Đại thừa:
• Bi tâm là trung tâm vận chuyển của thánh đạo: bi tâm là ý nguyện giảm thiểu khổ đau trước mắt của mọi người, khuyến phát họ hành trì sao cho giảm thiểu các đau khổ trong tương lai, trợ giúp họ trên con đường dẫn đến tỉnh thức/ giác ngộ để chấm dứt hết thảy mọi đau khổ. Bi tâm là trái tim của bodhi-citta (bồ-đề tâm), ‘tâm giác ngộ’, hay khát vọng đạt đến Phật quả vì lợi ích của chúng sanh.
• Bồ-đề tâm phát khởi từ sự rời bỏ tham đắm hạnh phúc cho riêng mình, và trí tuệ nhìn rõ bản tánh của thực tại.
• Bồ-đề tâm được thể hiện qua đạo hành của bồ-tát (bodhi-sattva), một chúng sanh phát nguyện thành tựu vô thượng bồ-đề (bodhi). Con đường tu tập các phẩm tính của vị Phật viên mãn giác được xem là lâu dài hơn con đường chứng đắc bồ-đề của A-la-hán, vì đi trên con đường lâu dài này cần có bi tâm vĩ đại hơn, và đó cũng là khía cạnh then chốt của việc phát huy đạo lộ này. Đây là con đường tu tập sáu công hạnh cho đến mức siêu việt: sáu ba-la-mật (Skt. pāramitā): thí (dāna), giới (śīla), nhẫn (kṣānti), tinh tấn (vīrya), định (dhyāna), và huệ (prajñā). Có khi thêm 4 công hạnh nữa: phương tiện (upāya-kauśalya), nguyện (praṇidhāna), lực (bala) và trí (jñāna). Mười ba-la-mật này tương ứng với mười quả vị hay mười địa (bhūmi) của bồ-tát dẫn đến chứng đắc Phật quả.
• Bồ-tát địa thứ tám trong mười địa dẫn đến Phật quả được xem là đã chứng niết-bàn (nirvana) như A-la-hán, trong đó hết thảy phiền não đã hoàn toàn diệt tận do đó không còn bị hệ phược sinh tử. Tuy nhiên, Đại thừa chủ trương đó chưa phải là niết-bàn rốt ráo, và vẫn còn phận sự cần làm. Đây là vị bất động bồ-tát đã đạt đến độ hoàn toàn vô trước trong vòng luân chuyển sinh tử (samsāra), do vậy mà hướng thẳng đến niết-bàn chân thật và cứu cánh mà chỉ có vị Phật vô thượng đẳng chánh giác mới chứng đắc.
• Các vị bồ-tát trong nhiều giai đoạn tu đạo có thể hiện thân là tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, hoặc cư sĩ thuộc nhiều trình độ tu chứng; một số thấp nhất cũng đạt sơ địa trong 10 quả vị, thuộc hàng Bồ-tát Thánh giả, vì họ đã chứng ngộ một pháp tánh, nhìn thấy sâu vào bản tánh của thực tại, được gọi là ‘kiến đạo’ (darśaṇa-mārga): giai đoạn nhận thức chân lý. Chư bồ-tát ở các quả vị cao hơn trên Thánh đạo là những chúng sanh siêu việt, giao tiếp với chư Phật khắp mười phương thế giới; các ngài là những vị cứu độ chúng sanh khi được khẩn cầu.
• Đại thừa có một quan niệm mới về vũ trụ xuất phát từ những tu tập quán tưởng chuyên chú về một vị Phật thành một thực thể ánh sáng vô hạn. Đại thừa cho rằng đồng thời với Phật Thích ca mâu ni còn có nhiều vị Phật như vậy.
• Đại thừa đã phát triển nhiều học thuyết tinh tế mà chúng ta sẽ thấy dưới đây.
Yêu cầu tu tập Bồ-tát đạo dẫn đến Phật quả vô thượng bồ-đề là cảm hứng từ viễn kiến thấy rằng vũ trụ bao la này luôn cần có nhiều vị Phật như vậy để giáo hóa. Bước vào thánh đạo này là mong ước thành nhân cách bi mẫn, phụng sự, dũng mãnh. Con đường của họ rất dài, vì họ phải thành tựu viên mãn giới đức và trí đức không chỉ để đạt Phật quả vi diệu cho riêng mình tới mà còn nhắm đến giải thoát mọi loài chúng sinh khác, ‘đưa chúng sanh vượt qua đại dương sinh tử’ bằng sự thuyết pháp, các thiện hành, hồi hướng phước nghiệp, và đáp ứng sự cầu nguyện. Trong khi bi tâm luôn là phần quan trọng trong Phật đạo, trong Phật giáo Đại thừa điều đó càng được nhấn mạnh hơn, như là động lực vận chuyển toàn bộ Bồ-tát đạo, là trái tim của bodhi-citta hay ‘tâm giác ngộ’.
3. Tánh chất và quan điểm của Phật giáo Đại thừa đối với các hệ phái Phật giáo khác
Quan điểm của Đại thừa là phê phán những người tu Phật chỉ quan tâm giải thoát cá nhân khỏi khổ của đời này và đời sau mà không quan tâm giải thoát khổ của tha nhân. Nó đặt trọng tâm trên điều được xem là tinh thần chân chính của giáo pháp của đức Phật, và kinh điển của nó nhằm trình bày điều này bằng mọi phương cách không bị câu thúc bởi sự trung thành đến từng câu chữ được cho là do đức Phật đã thuyết giảng. Các kinh điển này hướng thẳng đến điều đức Phật nhắm chỉ điểm hơn là những từ ngữ ngài dùng để chỉ dạy – nghĩa là ‘mặt trăng’ chứ không phải ‘ngón tay chỉ trăng’. Đó là lý do Đại thừa có nhiều bộ Kinh (sūtras) không được biết đến các truyền thống Phật giáo sơ kỳ, với những giáo pháp được hệ thống dần từng bước đã tạo thành phong trào với đầy đủ sắc thái riêng của nó.
Đầu tiên, một phong trào mới được gọi là Bodhisattva-yāna, Bồ-tát thừa, cổ xe của bồ-tát. Thừa này để phân biệt với Thanh văn thừa (Śrāvaka-yāna) cổ xe của hàng thanh văn tức đệ tử, cho những ai muốn thành A-la-hán, hay Độc giác thừa (Pratyeka-buddha-yāna) cho những ai muốn thành Phật đơn độc (không có đệ tử). Vì phong trào mới phải đáp lại những chỉ trích từ những người không chấp nhận Kinh điển của họ, họ không ngừng nhấn mạnh đến tính ưu việt của Bồ-tát thừa, gọi nó là Đại thừa, Mahā-yāna: cổ xe lớn, hay ‘cổ xe (đưa đến) Đại Giác’. Các thừa khác bị gọi mỉa là Tiểu, hīna: ‘nhỏ, hay thấp hơn’. Tuy nhiên từ Hinā-yāna (Tiểu thừa) không được xem là tên của bất cứ trường phái Phật giáo nào, mà chỉ là một hạn từ chỉ động lực thúc đẩy và các viễn điểm liên đới.
Một bộ kinh chủ yếu đã phát triển quan điểm, mặc dù đối nghịch ‘Tiểu thừa’, đã tìm cách mô tả nó như được dung hội vào Đại thừa và hoàn thiện bởi thừa này: Kinh Diệu pháp liên hoa, gọi tắt là Pháp hoa kinh (Saddharma-puṇḍarīka). Phẩm 2 của Kinh đạt đến sự hội thông này bằng một khái niệm mà về sau trở thành tâm điểm của Mahāyāna: upāya-kauśalya (upāya, phương tiện; kauśalya, sự thiện xảo). Mọi truyền thống Phật giáo đều đồng ý rằng đức Phật đã linh động thích nghi nội dung giáo pháp của Ngài tùy theo trình độ và căn tánh người nghe. Đó là đơn giản lựa chọn một phương tiện thuyết giáo đặc biệt của riêng Ngài từ một bộ phận giáo lý đại đồng. Đại thừa còn chủ trương rằng đức Phật đã ban bố nhiều trình độ giáo lý khác nhau mà trong thực tế có thể xem như mâu thuẫn nhau, vì ‘trình độ cao cấp’ cần phải tháo gỡ một số giáo lý quá đơn giản của ‘trình độ hạ liệt’. Trong khi thông điệp tối hậu của Phật là hết thảy chúng sanh đều có thể thành đức Phật nhất thiết trí, nhưng nếu thuyết giảng cho người sơ cơ nó sẽ quá khó tin và dễ nhầm lẫn. Do đó với những hạng phàm ngu có ‘căn cơ hạ liệt’ Ngài bắt đầu tuyên thuyết giáo lý bốn Thánh đế, đặt ra mục tiêu chứng quả A-la-hán mà nhập niết-bàn. A-la-hán được xem là vẫn còn một màng vi tế vô minh và thiếu tâm đại bi mà chỉ mong cầu tự thoát vòng sinh tử, bỏ mặc chúng sanh chưa giác ngộ tự liệu lấy. Với những người đã sẵn sàng hiểu giáo pháp cao hơn, Phật dạy niết-bàn chân thật được chứng nhập bằng Phật quả, rằng tất cả đều có thể đạt đến đó, ngay cả các a-la-hán đang nghĩ rằng họ đã đạt đến mục đích rồi. Đức Phật duy chỉ có ‘một thừa’ (eka-yāna), đó là Phật thừa quán triệt, nhưng bằng ‘phương tiện thiện xảo’ Ngài đã khai triển một thừa này thành ba: thừa cho thanh văn, Độc giác và bồ-tát. Đức Phật trao cho mọi hạng người bất cứ thừa nào trong ba thừa mà phù hợp với thiên tư và chí nguyện của họ, và một khi Ngài đã hướng dẫn họ tu tập thuần thục, bấy giờ Ngài đưa ra cho họ Phật thừa tối hậu, còn các thừa khác chỉ là tạm thời. Vì bồ-tát đạo dẫn đến Phật quả, nó có vẻ khó phân biệt giữa Bồ-tát với các Phật-thừa. Giáo lý được thuyết trong kinh Diệu pháp liên hoa khẳng định rằng bất cứ ai nếu được nghe danh hiệu một vị Phật và kính lễ Ngài thì chắc chắn sẽ thành Phật trong tương lai dù thời gian đó dài lâu bao nhiêu, bởi vì chủng tử Phật tánh đã có sẵn trong hết thảy chúng sanh. Hầu hết các đệ tử của Phật đều được thọ ký sẽ thành Phật trong tương lai ở nhiều cõi khác nhau, được gọi là các cõi Phật (Buddha-kṣetra) hay còn gọi Phật quốc. Không phải tất cả kinh điển Đại thừa đều theo quan điểm ‘nhất thừa’ này, mà một số, như kinh Ugra-paripṛcchā (Úc-già Trưởng giả vấn kinh) theo quan niệm ‘tam thừa’ trong đó a-la-hán không còn tu thêm nữa. Kinh khác, như Aṣṭasāhasrikā Prajñāpāramitā (Bát-nhã bát thiên tụng), nhấn mạnh điểm quan trọng của bồ-tát là không thối lui để cầu quả vị thấp hơn là quả a-la-hán.
Theo chuẩn mực về a-la-hán quả được giữ gìn bởi các trường phái Thanh văn thừa như Theravāda (Thượng tọa bộ), a-la-hán được mô tả là thấm đẫm tâm từ và thương tưởng giáo hóa chúng sanh. Theravāda cũng biết rằng con đường tiến đến Phật quả trải qua vô số kiếp là sự hành trì cao thượng nhất, vì mục tiêu của nó là cứu độ vô lượng chúng sanh (xem tiêu đề trên, *Th.6). Mặc dù Bồ-tát đạo vẫn được một số ít các vị Theravāda tu trì (thường là hàng cư sĩ), nó được xem là đường lối chỉ dành cho một số ít bậc đại sỹ. Còn lại hầu hết đều hoan hỷ áp dụng giáo lý của đức Phật lịch sử để tu hướng đến quả vị a-la-hán dẫu thành tựu được trong đời này hay trong đời vị lai.
Một đặc điểm của Mahāyāna là khuyến khích mọi ‘thiện gia nam tử nữ nhân’ đi theo con đường Bồ-tát đạo. Trong khi Mahāyāna lúc ban đầu có thể được phát triển bởi các tu sĩ có tinh thần cải cách, rõ ràng đã có sự chuyển dịch từ Phật giáo lấy tự viện làm trung tâm, trong đó các nhà sư đóng vai trò vượt trội trong việc hoằng Pháp, sang hàng cư sĩ với những đóng góp quan trọng trong việc phổ biến và phát triển Chánh pháp. Đỉnh điểm của phong trào ‘tại gia’ này được khắc họa trong câu chuyện về cư sĩ Vimalakīrti (Duy-ma-cật) người đã phê phán các yếu tố bảo thủ trong Phật giáo tăng lữ về việc theo đuổi giải thoát cá nhân mà, mặc dù không làm phương hại ai, theo ông vẫn chưa đủ tích cực mang đến lợi lạc cho chúng sanh đang đau khổ (*M.10, 113, 127, 136, 141, 168).
Trải qua nhiều thế kỷ, nhiều tu sĩ đã học và hành theo cả hai thừa Thanh văn và Mahāyāna; cả hai cùng hiện diện trong một tự viện chung không phải là việc hiếm. Trên thực tế người Trung quốc mãi cho đến cuối thế kỷ thứ 4 vẫn chưa phân biệt rõ ràng Đại thừa là một trào lưu tách biệt.
4. Sự phát triển văn tịch Đại thừa
Mahāyāna xuất hiện trong lịch sử như một liên kết rời rạc của các nhóm, mà mỗi nhóm gắn liền với một hay vài bộ kinh (sūtra; Pāli, sutta) chưa biết đến trước đó. Các kinh này được bảo tồn qua ngôn ngữ Sanskrit, thứ ngôn ngữ uy tín của Ấn độ tựa như chữ Latin một thời của châu Âu. Khởi thủy, kinh văn Đại thừa được mô tả theo một thể loại là vaipulya, nghĩa là ‘quảng diễn’: ‘được mở rộng’; là sự mở rộng những điều Phật dạy một cách gián tiếp, mật ý, có tính ẩn dụ. Các kinh vaipulya (phương quảng, hay phương đẳng) là một trong 9 thể loại Phật ngôn (buddha-vacana [1]) dưới dạng quảng diễn. Nó tương đương chữ Pāli vedalla như trong tên kinh Mahā-vedalla (Đại phương quảng) và Cūḷa-vedalla (Tiểu phương quảng) [2]. Các nhà Đại thừa thường nhấn mạnh, không nên hiểu lời dạy của đức Phật theo nghĩa từ chương, vì một từ ngữ chỉ đơn thuần là một biểu hiện thay cho một thực tại sâu lắng ẩn tàng trong đó, một ‘ngón tay’ chỉ ‘mặt trăng’ trong bầu trời xa xăm.
Bất cứ ai chấp nhận văn học Mahāyāna là các sūtras chân chính – những bài pháp chính giáo của Phật– như vậy người đó thuộc trào lưu mới. Điều này không đòi hỏi các tỳ-kheo hay tỳ-kheo-ni phải từ bỏ cộng đồng huynh đệ cũ, vì họ vẫn tiếp tục tuân thủ giới luật tự viện của cộng đồng huynh đệ mà theo đó họ được xuất gia. Trong một thời gian, các nhà Đại thừa vẫn là thiểu số trong những người Ấn theo đạo Phật, mặc dù theo ước tính của Huyền Trang, vào thế kỷ thứ 7, trong số 200.000 tăng lữ Ấn có đến một nửa thuộc hệ phái Đại thừa.
Những người bảo thủ truyền thống phủ nhận nền văn học Đại thừa là ‘Phật thuyết’ (buddha-vacana), nhưng các nhà Đại thừa đã bảo vệ tính chính thống của họ bằng nhiều phương sách khác nhau. Trước hết, các kinh điển này trước kia được xem là những phát ngôn cảm hứng xuất phát từ đức Phật mà ngày nay được coi là vẫn có thể tiếp cận qua những hiện tướng do tu quán và những mộng cảnh minh hiển. Thứ hai, chúng được coi như những điều cùng phát sinh từ trí tuệ như thực như nhau vốn là cơ sở y cứ trên đó Phật tuyên thuyết Chánh Pháp [3]. Thứ ba, trong Đại thừa hậu kỳ, các kinh điển này được coi là những lời giáo pháp của Phật được giữ kín dưới long cung (nāga), cho tới khi có người có khả năng nhìn ra những mật ý sâu xa hơn trong giáo huấn của Ngài, những người ấy sẽ phục hồi chúng bằng năng lực của thiền định. Mỗi giải thích đều xem các sūtras là điểm phát xuất, trực tiếp hay gián tiếp, từ những chứng nghiệm tu quán. Mặc dù vậy, các kinh điển Đại thừa đều mang hình thức là những đối đáp giữa đức Phật ‘lịch sử’ với các vị đệ tử và chư thiên.
Kinh điển Đại thừa được ví như ‘thời chuyển pháp luân’ thứ hai, thời thuyết pháp cho trình độ cao hơn các kinh điển sơ kỳ, với các đệ tử Phật là hàng bodhisattva được mô tả với trí tuệ cao hơn các vị đệ tử hàng a-la-hán. Vì các sūtras được cho là bao hàm chân lý giải thoát, người ta nói sẽ được lợi lạc vô lượng khi sao chép, phổ biến, tụng đọc, giảng giải, thấu hiểu, hành trì, và ngay cả chỉ lễ bái tôn kính chúng.
Một số văn bản Đại thừa có hình thức như bản tường thuật về giáo lý mà Phật truyền dạy trong ngữ cảnh của phàm phu. Một số vận dụng phong cách đặc thù của văn chương để diễn đạt một lý giải về các lời dạy của Phật, chẳng hạn trong số đó, Phật thuyết pháp trong khung cảnh kỳ diệu giữa các chúng chư thiên, như được thấy với phạm vi nhỏ hẹp trong một số ít kinh điển sơ kỳ rộng, như kinh Mahā-samaya (Đại tập hội) [4]. Có nhiều bộ kinh Đại thừa phản ánh phong cách này, trong đó, đức Phật sử dụng ngôn ngữ khoáng trương và nghịch lý, thị hiện nhiều vị Phật và bồ-tát đại địa từ các thế giới khác, đang tồn tại trong nhiều quốc độ khắp trong vũ trụ. Một số các đấng cứu hộ thế gian này, là chư Phật, và trong các kinh khác là các bồ-tát, đã trở thành đối tượng kính ngưỡng và lễ bái, và được thêm vào với số lượng lớn để đáp ứng yêu cầu và sự truyền bá thành công của Đại thừa.
5. Kinh điển và triết thuyết Đại thừa
Các nhà Đại thừa tiếp tục chịu ảnh hưởng bởi các tư tưởng từ Phật giáo sơ kỳ, được bảo tồn, chẳng hạn, trong bộ phận A-hàm (āgamas) trong Hán tạng, tương đương bộ nikāyas trong kinh tạng Pāli. Một số văn bản thời kỳ đầu Đại thừa như kinh Śālistamba (mầm lúa: *M.130-31; bản Việt: kinh Đạo cán), về lý tính duyên khởi của tồn tại, cho thấy một giai đoạn chuyển tiếp từ những ý tưởng Phật giáo sơ kỳ, trong khi bộ Śatapañcaśatka-stotra (Bách ngũ thập tụng: *M.2) của Mātṛceṭa (thế kỷ thứ 2 Tl) xưng tán đức Phật theo phong cách khá truyền thống. Một số văn bản khác lại rõ ràng là các phiên bản mở rộng của các bộ kinh tiền-Đại thừa, như bộ Upāsaka-śīla (‘Ưu-bà-tắc giới’: *M.1, 23, 30, 38, 42, 50, 53, 56, 64-5, 72-3, 79, 82-4, 87-92, 98, 102, 104, 160), được dịch sang Hán văn khoảng năm 425 Tl, vốn được xây dựng trên các văn bản được thấy trong kinh tạng Theravāda như bộ Sigālovāda Sutta (Dīgha-nikāya, kinh 31: *Th.49), nhưng nhấn mạnh việc hành trì của cư sĩ như một vị bồ-tát. Trong kinh Ugra-paripṛcchā (Úc-già vấn kinh: *M.49 và 81), Hán dịch lần đầu trong thế kỷ thứ 2 Tl, giảng dạy các bồ-tát tại gia và xuất gia, chúng ta thấy các dấu hiệu khởi thủy của Đại thừa giữa các vị sư sống bằng khất thực và thiền tập trong rừng.
Phối cảnh học thuyết của Đại thừa được trình bày trong cả hai, Kinh (sūtra), do Phật thuyết, và Luận (śāstra), được viết bởi các tác giả danh tiếng. Chúng trình bày một cách có hệ thống quan niệm của các trường phái Đại thừa đặc thù, đặt căn bản trên các Kinh, kinh nghiệm luận lý và tu định. Mỗi trường phái gắn liền với một nhóm kinh riêng mà ý nghĩa hoặc đã rõ ràng (kinh liễu nghĩa; Skt. nītārtha) hoặc còn phải diễn giảng (bất liễu nghĩa; Skt. neyārtha). Quá trình này đã tiếp diễn ở những nơi Đại thừa lan truyền đến, và cũng đã nhận lấy những điểm trọng thị rộng lớn dị biệt theo từng địa phương.
Trong hệ kinh Bát-nhã ba-la-mật (Prajñā-pāramitā), tư tưởng chủ đạo là, do bởi lý tương quan duyên khởi của vạn hữu lẫn tính không thể như thực nắm bắt thực tại bằng các khái niệm, hết thảy những gì chúng ta kinh nghiệm đều rỗng không không có tự thể: tư tưởng về ‘tánh không’ (śūnyatā) vì không tự tính (svabhāva) (xem *M.137–41). Thêm nữa, điều này còn có nghĩa là thế giới hữu vi của kinh nghiệm thường nhật, trong đời này và các đời sau (saṃsāra, luân hồi), không tuyệt đối khác với hay tách biệt khỏi thực tại tối hậu, nirvana, mà trong đó tham, sân, si đều trống không, không bị găm chặt vào các ý niệm. Do đó không thể tìm kiếm nirvana ngoài thế gian này mà chính trong sự lý giải như thực về thế gian. Được hỗ trợ bởi ý niệm rằng cái gì trống không thì không thể nắm bắt, bồ-tát thực hành 37 thành phần bồ-đề[5] vì tự lợi và thực hành các ba-la-mật của bồ-tát vì lợi ích của hết thảy chúng hữu tình, vị ấy biết rằng chân lợi ích của mình và của người không khác và không thể tách rời. Hệ kinh Prajñā-pāramitā bao gồm: Aṣṭasāhasrikā (‘8,000 tụng’: *M.54, 70, 76, 140, 153), Vajracchedikā (Năng đoạn Kim cang: *M.4, 9, 20, 44, 48, 103), và Pañcaviṃśati-sāhasrikā (‘25,000 tụng’: *M.135, 139), và bản kinh ngắn rất phổ thông Hṛdaya (Bát-nhã tâm kinh: *M.137). Một bản kinh vận dụng tư tưởng tánh không để nhấn mạnh sự vượt qua mọi tư duy nhị nguyên là bộ Vimalakīrti-nirdeśa (Duy-ma-cật sở thuyết: e.g. *M.127, 136, 141, 168), trong đó trí tuệ của một vị bồ-tát tại gia chói sáng trên trí tuệ nhiều vị Đại đệ tử Phật. Tư tưởng về tánh không được tiếp nhận và phát triển bởi trường phái Trung quán của triết học Đại thừa, mà tác phẩm căn bản là bộ Mūla-madhyamaka-kārikā (Căn bản trung luận tụng: *M.138) của ngài Long Thọ (Nāgārjuna, khoảng 150–250 TL). Các trước tác nhiều ảnh hưởng khác của trường phái này, viết bởi Tịch Thiên (Śāntideva, khoảng 650–750 TL), là bộ Bodhicaryāvatāra (Nhập bồ-đề hành: *M.43, *V.34, 35, 38, và các trích dẫn trong kinh điển Kim cang thừa) nói về các ba-la-mật của bồ-tát, và bộ Śikṣā-samuccaya (Tập bồ-tát học luận), trích từ nhiều bản kinh Đại thừa.
Vì đức Phật cuối cùng đã nhập niết-bàn, kết thúc đời sống tại thế, điều này đặt ra câu hỏi liệu ngài có tiếp tục tồn tại hay không, dưới hình thức nào đó, sau khi ngài nhập diệt, được cho là sự “dập tắt” cuối cùng (Sankrit, nirvāṇa, nghĩa đen là sự dập tắt khổ và nguyên nhân của khổ). Đây là câu hỏi liệt kê trong số những vấn đề gọi là ‘Mười bốn vấn đề không giải đáp’ (vô ký vấn, the fourteen undetermined issues[6] ) được xem như vượt ngoài tầm tư duy và biện luận của con người. Dù sao, sau khivị thầy tôn kính khuất bóng, lẽ tự nhiên cộng đồng đệ tử cảm thấy côi cút, hoài niệm bóng thầy dắt dẫn, đã nêu lại câu hỏi đã từng bị Phật cho là không thể chứng minh. Câu hỏi này dẫn đến những vấn đề khác liên quan tánh thể của vị Thầy vĩ đại. Đại thừa quan niệm Phật tánh thường trụ được diễn giải trong các bộ kinh như Saddharma-puṇḍarīka (Diệu pháp liên hoa: *M.7, 22, 55, 152), một văn bản nhiều ảnh hưởng, và bộ Mahā-parinirvāṇa (Đại bát niết-bàn: *M.5, 6, 8, 40, 43, 111, 145).
Ngoài ra Đại thừa còn giới thiệu những ý tưởng về nhiều vị Phật hiện tồn tại nhiều nơi trong vũ trụ nhưng có thể tiếp cận được. Trong số đó, một vị Phật đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật giáo Đông Á, đó là đức Phật A-di-đà (Amitābha, Vô lượng quang), cũng có hiệu là Amitāyus (Vô lượng thọ). Ngài được cho là đang ở ‘thế giới cực lạc’ (Sukhāvatī), được tạo thành bởi uy lực thiện nghiệp của ngài, là cõi lý tưởng để tu đạo có thể phát triển nhanh chóng, và người ta có thể đến được nếu có chánh tín nơi năng lực cứu độ của ngài. Kinh Pratyutpanna Buddha Saṃmukhāvasthita Samādhi, Quán Phật tam-muội (‘Bát chu tam muội kinh’: *M.114), và hai bộ kinh nhiều ảnh hưởng là bộ Tiểu và Đại Sukhāvatī-vyūha (‘Lạc hữu trang nghiêm kinh’: *M.158, 159), còn được gọi là Tiểu và Đại A-di-đà kinh.
Các kinh như bộ Saṃdhi-nirmocana (‘Giải thâm mật kinh’: *M.143) và bộ Laṅkāvatāra (‘Nhập Lăng-già kinh’: *M.142) nhấn mạnh thế giới mà ta trải nghiệm tự căn bản có tự tánh là duy tâm. Những gì chúng ta kinh nghiệm là của một quá trình diễn giải phức tạp vốn bị chi phối bởi tập quán, khuynh hướng, các hành vi quá khứ, cùng với ngôn ngữ. Điều này cũng áp dụng cho các quan niệm của chúng ta về thế giới vật chất. Tất nhiên nhãn quan này đôi khi cho rằng không tồn tại thế giới vật chất nào bên ngoài dòng chảy của những cảm nghiệm tâm thức. Với nhãn quan này, điều quan trọng là cần tìm tâm tác thành kinh nghiệm như thế nào, để vượt ra khỏi sự phân hóa kinh nghiệm thành một tự ngã-chủ thể được cho là thường trụ bên trong và những sự vật khách quan bên ngoài, và trải nghiệm một sự tái định hướng tận căn để của tâm, ở trong tạng thức (ālaya-vijñāna, a-lại-da thức) là một kho chứa vô thức các hạt giống nghiệp để hình thành kinh nghiệm tâm thức. Cách nhìn như vậy được tiếp nhận và khai triển trong trường phái Yogācāra (Du-già hành) hay Citta-mātra (Duy thức) của triết học Đại thừa, do Asaṅga (Vô trước; 310-90?) và người em là Vasubandhu sáng lập. Tương truyền, Asaṅga được bồ-tát Di lặc (Maitreya) khai thị để biên soạn bộ Mahāyāna-sūtrālaṃkāra (Đại thừa trang nghiêm kinh luận), đã hệ thống hóa các tư tưởng Đại thừa về Phật tánh.
Các bộ kinh như Tathāgata-garbha (Như lai tạng: *M.12), Śrīmālādevī-siṃhanāda (Thắng man sư tử hống: *M.13) và Mahā-parinirvāṇa (Đại bát-niết-bàn) diễn tả tư tưởng Tathāgata-garbha (bào thai của Như lai): Như lai tạng, Phật, hay Phật tánh. Nó được cho là trống không tham, sân, si nhưng không trống không các công đức hy hữu của chư Phật, và là một thực tại quang minh sẵn có nơi mọi chúng sinh, khiến họ khám phá và thành tựu chín muồi Phật quả. Tư tưởng này, trong khi gợi đến một tư tưởng Phật giáo sơ kỳ rằng do tu tập mà khai mở quang minh bản hữu của tâm (*Th.124), có thể phần nào là phản ứng với Ấn giáo đang trổi dậy với tư tưởng về một cá Ngã thường hằng trong mọi chúng sinh. Ấn giáo đã liên tục phê phán Phật giáo vì không chấp nhận bất cứ gì như là ‘Ngã’, cũng như không chấp nhận hệ thống giai cấp và đẳng cấp thiêng liêng của Ấn giáo. Như lai tạng được coi là quang minh bản hữu của Phật tánh có sẵn trong mọi chúng sinh. Trong khi, từ một phương diện, Như lai tạng bị nhận lầm như là Tương tợ Ngã kể từ vô thủy sanh tử, nhưng từ phương diện tuyệt đối nó được xem là Vô ngã, không liên hệ gì đến cảm thức về cái “Tôi là” (*M.144-46). Ở Ấn độ tư tưởng này được hệ thống hóa trong bộ Ratnagotra-vibhāga (‘Bảo tánh luận’: *M.12), còn gọi là Uttara-tantra (Tối thượng tục), được cho là do Sāramati (Kiên Huệ) hay Maitreya (Di-lặc) trước tác, và đã có ảnh hưởng mạnh mẽ trong Phật giáo Trung quốc và các nước Đông Á.
Bộ Buddha-avataṃsaka (Đại phương quảng Phật hoa nghiêm: *M.39, 46, 51, 62, 71, 96, 112, 149, 154), là bản trích yếu nhiều kinh từng được lưu hành riêng, như kinh Daśa-bhūmikā (Thập địa), giảng về các giai vị (địa) trên Bồ-tát đạo, và bộ Gaṇḍa-vyūha (Hoa nghiêm: *M.17, 69, 148). Đây là một kiệt tác văn học về sự vấn đáp của thiếu niên Sudhana (Thiện Tài) với các vị đại sư anh gặp trên đường học đạo. Nó đạt đến cực điểm với quan niệm ảo diệu về bản tánh của thực tại, nơi Sudhana nhìn thấy sự tương liên sâu thẳm của mọi hiện tượng, chân tánh tối hậu của chúng, với vạn hữu xuyên suốt nhau qua thời gian và không gian. Truyền thống của Đại thừa cho rằng đó là bộ kinh đầu tiên đức Phật thuyết giảng sau khi giác ngộ dưới cội bồ-đề.
6. Kinh điển Phật giáo Trung quốc
Phật giáo, chủ yếu là Đại thừa, đã truyền dọc theo Con đường tơ lụa, xuyên qua Trung Á và đến Trung quốc khoảng năm 50 Tl. Ở đây nó giữ địa vị khá trọng yếu và lâu dài, thích nghi với môi trường văn hóa Trung quốc chi phối bởi Khổng giáo. Những hình thức Phật giáo mang dấu ấn Trung quốc này lan truyền tới Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản. Việc phiên dịch dần dà khối lượng văn bản Phật giáo đồ sộ từ tiếng Sanskrit và các phương ngữ Ấn độ là một công trình vĩ đại.
Có lẽ bản dịch kinh Phật đầu tiên (cuối thế kỷ thứ nhất Tl) là bộ Sishierzhang jing (kinh Tứ thập nhị chương: *M.31, 58). Một bản tóm tắt các giáo pháp căn bản của đạo Phật, các dạng thức về sau chứa đựng nhiều yếu tố Đại thừa hơn, cùng một số ảnh hưởng từ Đạo giáo Trung hoa. Kinh Fo chui ban nie pan liao shuo jiao jie jing (Phật thùy bát niết bàn lược thuyết giáo giới, gọi tắt: Kinh Di giáo), được dịch khoảng năm 400 Tl, nhấn mạnh giới luật tự viện trong khung cảnh Đại thừa. Kinh Fan wang jing (Phạm võng: 45, 90, 97, 100, 112), văn bản quan trọng về giới luật của hàng bồ-tát xuất gia và tại gia, đã trở thành phổ biến ở Trung Hoa vào giữa thế kỷ thứ 5 Tl. Một bản kinh quan trọng khác là bộ Dizangpusa benying jing (Địa tạng bồ-tát bổn nguyện kinh [7] : *M.11, 24, 35, 68). Nho giáo coi trọng lòng hiếu thảo của con cháu hay sự tôn kính ông bà tổ tiên, cũng đã cho ra một văn bản Phật giáo là bộ kinh Yulanpen (Ullambana sūtra, kinh Vu lan bồn, giữa thế kỷ thứ 6); và bộ Fumuenzhong jing (Phụ mẫu trọng ân kinh, thế kỷ thứ 8?: *M.36).
Nhiều tông phái mới đã phát triển trong Phật giáo Trung Hoa, trong đó hai phái đã phát triển các hợp đề bao quát các giáo nghĩa từ nhiều kinh điển Phật giáo, là Thiên thai và Hoa nghiêm, mà Nhật ngữ là Tendai và Kegon. Tông Thiên thai được sáng lập bởi Zhiyi [8] (Trí Khải, 539-97 Tl.), cho rằng giáo pháp tối cao của đức Phật được trình bày trong kinh Đại bát niết-bàn và kinh Pháp hoa, nhằm đề cao quan niệm về Phật tánh, bản tánh siêu nhiên của Phật, và các phương tiện thiện xảo để giáo hóa tùy theo căn tánh người nghe. Kinh Diệu pháp liên hoa còn là trọng tâm tín lý của Nhật liên tông (Nichiren) Nhật Bản. Các trước tác của Trí Khải được trích dẫn trong sách này là các bộ Fa-hua San-mei Chan-yi (Pháp hoa tam muội sám nghi:*M.123) và Mo-ho Zhi-Guan (Ma-ha chỉ quán: *M.119). Tông Hoa nghiêm do Đỗ Thuận (Dushun, 557-640) khai sáng, được hệ thống bởi vị tổ thứ ba, Hiền Thủ Pháp Tạng (Fazang [9] , 643-712). Tông này cho rằng giáo pháp cao nhất của đức Phật được thuyết trong kinh Đại phương quảng Phật Hoa nghiêm (Avataṃsaka sūtra), đặc biệt trong kinh Gaṇḍavyūha (phẩm Nhập pháp giới). Tông này quan niệm thực tại rốt ráo là không không có bản tánh cố định, một thể chất biến thiên làm cơ sở cho mọi thứ,, cũng như vàng có thể nắn thành vô vàn hình dáng khác nhau. Quan niệm này cũng có ảnh hưởng đáng kể trong Thiền tông Trung quốc. Sách này gồm các trích đoạn từ Hoa nghiêm ngũ giáo chỉ quán (*M.149) được cho của Đỗ Thuận, và Kim sư thử chương của Pháp Tạng (*M.150).
Phật giáo Trung quốc có hai tông phái chú trọng hình thức hành trì đặc thù: Thiền tông và Tịnh độ tông. Thiền tông có vị sư nửa huyền thoại gốc Ấn, Bodhidharma (470-543), là người sáng lập, và người có nhiều ảnh hưởng sau đó là vị tổ thứ sáu, Huệ Năng (638-713; *M.167), đặc biệt qua tác phẩm Lục tổ đàn kinh. Các bộ kinh Ấn-độ có ảnh hưởng quyết định với Thiền tông là kinh Lăng-già (Laṅkāvatāra) và bộ Kim cang Bát-nhã ba-la-mật (Vajracchedikā Prajñāpāramitā). Tuy nhiên Thiền tông còn phát triển hệ thống văn học riêng tập trung vào Công án (gong-an; Nhật: kōan), thường là những phát biểu nghịch lý của các Thiền sư [10]. Sách này sử dụng các trích đoạn từ ‘Đàn kinh’ (*M.125-27, 167), từ bài minh Tín tâm (Xin Xin ming: *M.128) của Tăng Xán (tịch năm 606), vị tổ thứ ba, và từ Tọa thiền nghi (*M.124), tác phẩm trọng yếu hướng dẫn nghi thức tọa thiền của thiền sư Changlu Zongze (長蘆宗賾Trường lô Tông trách, tịch 1107?).
Tịnh độ tông chú trọng việc tín nguyện hơn thiền quán, và kinh điển quan trọng của tông phái là hai bộ kinh Vô lượng thọ (Sukhāvatī-vyūha sutra). Tông này do Đàm Loan (476-542) sáng lập, nhấn mạnh việc nhất tâm tín ngưỡng Phật A-di-đà, niệm danh hiệu và quán tưởng cõi ‘Cực lạc’ của Ngài (*M.114, 158-59). Việc hành trì dễ dàng đã khiến tông này rất phổ thông ở các nước Đông Á. Ở Nhật tông này có hai nhánh, nhánh Tịnh độ (Jōdo) và Tịnh độ chân tông (Jōdo-shin).
7. Kinh văn Hán, Tạng
Các nguồn tư liệu cho kiến thức của chúng tôi về giáo pháp Đại thừa là các bộ kinh tạng vĩ đại của Phật giáo Trung quốc và Tây tạng. Trong khi hầu hết kinh tạng Pāli (của Phật giáo Thượng tọa bộ) đã được dịch ra tiếng Anh, chỉ có một số văn bản chọn lọc từ tạng kinh rộng lớn hơn bằng Hán và Tạng ngữ được dịch ra các ngôn ngữ Tây phương, dù nhiều tiến triển vẫn đang diễn ra. Trong khi các văn bản được Phật giáo Đại thừa các nước Đông Á sử dụng chủ yếu là các sūtra được cho chính đức Phật thuyết giảng, ví dụ như kinh tạng Hán ngữ, trong Kim cang thừa các văn bản chủ yếu được dùng là kinh tạng Tây tạng vốn là sự trình bày có hệ thống các tư tưởng Phật học và cách hành trì đa phần được trích dẫn từ các sūtra (kinh điển Đại thừa) và tantra (kinh điển Kim cang thừa), và các luận thư sơ kỳ từ Ấn-độ. Trong cả hai lãnh vực này, các luận thư bản xứ đóng vai trò lớn trong việc hình thành các tông phái Phật giáo cá biệt mang tính địa phương.
Kinh tạng Hán ngữ được biết là bộ Đại tạng kinh. Ấn bản tiêu chuẩn, theo thứ tự phi truyền thống dựa trên việc hệ thống hóa của các học giả, là bộ Đại chánh Đại tạng kinh, thường gọi tắt là Đại chánh, được ấn hành tại Nhật Bản từ năm 1924 đến 1929. Nó bao gồm 55 đại tập, mỗi tập hơn 1000 trang, gồm 2148 bộ.
(xem: http://en.wikisource.org/wiki/Portal_talk:Buddhism
http://en.wikisource.org/wiki/Taish%C5%8D_Tripi%E1%B9%ADaka )
Nội dung Hán tạng bao gồm:
(i) A-hàm bộ (āgamas; tương đương 4 nikāya Pāli), 151 kinh, trong 2 tập.
(ii) Bản sinh bộ (jātaka, chuyện về tiền thân đức Phật khi còn là Bồ-tát) 68 kinh trong 2 tập.
(iii) Bản dịch các kinh Đại thừa (628 kinh, 13 tập), thỉnh thoảng có kinh có nhiều bản trùng dịch. Phần này được xếp thành các kinh:
– Bát-nhã bộ (42 kinh, 4 tập),
– Pháp hoa bộ (16 kinh, 1 tập),
– Hoa nghiêm bộ (32 kinh, 1 tập rưỡi),
– Bảo tích bộ (64 kinh trong 1 tập rưỡi),
– Niết-bàn bộ (23 kinh trong 1 tập rưỡi),
– Đại tập bộ (28 kinh, 1 tập) và nhiều bản kinh khác (phần lớn là kinh Đại thừa; 423 kinh, 4 tập) (iv) Mật giáo bộ, các tantra (572 kinh, 4 tập)
(v) Luật bộ: các Tì-nại-da (vinaya) sơ kỳ và một số giới luật cương yếu cho hàng bồ-tát (84 kinh, 3 tập)
(vi) Kinh sớ bộ (31 kinh, trong 1 tập rưỡi)
(vii) A-tì-đàm bộ: các luận thư A-tì-đạt-ma (abhidharma) sơ kỳ (28 bộ, 3 tập rưỡi)
(viii) Trung quán & Du-già bộ, & Luận tập bộ: các luận thư (śāstras) ngoài A-tì-đạt-ma (129 bộ, 3 tập)
(ix) Kinh sớ, Luật sớ, Luận sớ: các sớ giải Hán về kinh, luật và luận (sūtra, vinaya, śāstra, 158 bộ, 12 tập)
(x) Chư tông bộ: trước tác của các tông phái (175 bộ, 4 tập rưỡi)
(xi) Sử truyện bộ: các tiểu sử (95 bộ, 4 tập)
(xii) Sự vựng bộ, Mục lục bộ, Ngoại giáo bộ, Cổ dật bộ, Nghi tợ bộ: Các vựng tập, bách khoa, từ điển, mục lục Tam tạng Hán ngữ, lịch sử, học thuyết ngoài Phật giáo (đạo Hindu, Mani, Cơ đốc Nestorian), và các văn bản có vấn đề (800 bộ, 4 tập).
Đến năm 1934 có bản Đại chánh tân tu, bổ sung thêm 45 tập gồm 736 bộ: các trước tác của người Nhật, các thủ bản phát hiện ở hang động Đôn hoàng Trung quốc, các ngụy thư biên soạn tại Trung quốc, đồ tượng, và thư tịch.
Đại tạng Tây tạng sẽ có một bản đề cương trong phần giới thiệu Kim cang thừa của sách này.
Xin lưu ý rằng, khoảng phân nửa đoản văn ghi dấu M. trong sách này được dẫn xuất từ bản Đại chánh, do đó, chúng là bản dịch từ Hán ngữ. Các bản dịch trực tiếp từ tiếng Phạn được đánh dấu riêng.
[1] Ví dụ, bộ Aṅguttara-nikāya II.7.
[2] Majjhima-nikāya, các kinh 43, 44, dưới hình thức vấn đáp và diễn giải, về một số khái niệm Phật giáo.
[3] Kinh Aṣṭasāhasrikā Prajñāpāramitā, tr. 4.
[4] Kinh 20, Đại hội, trong Trường bộ kinh (Dīgha-nikāya).
[5] Bodhi-pakṣa- dharma (Pāli, bodhi-pakkhiya- dhamma), bao hàm các phẩm tính như bốn niệm trụ (*Th.138) và thánh đạo tám chi (*Th.99).
[6] Truyền thống Theravāda nêu lên 10 vấn đề (xem *Th.20, cf. *Th.10).
[7] Tựa Skt.: Kṣitigarbha Bodhisattva Pūrvapraṇidhāna Sūtra.
[8] Trước đây còn phiên là Chih-i.
[9] Trước đây thường phiên là, theo thứ tự, Tushun và Fa-tsang.
[10] Một mẩu nghịch thường mà tinh tế, chẳng hạn như ‘tiếng vỗ của một bàn tay là gì?’, thường được dùng như một đề mục thiền quán trong phái Thiền Lâm tế.
Peter Harvey & Thich Tue Sy
Dịch Việt: Hương Tích
[Nguồn: COMMON BUDDHIST TEXT: GUIDANCE AND INSIGHT FROM THE BUDDHA
Chief Editor: Venerable Brahmapundit.
Editor: Peter Harvey.
Translators: Tamás Agócs, Peter Harvey, Dharmacārī Śraddhāpa, P.D. Premasiri, G.A Somaratne, Venerable Thich Tue Sy.